Hàng loạt tác phẩm "kinh thiên động địa" (nếu xuất hiện bây giờ chắc là bình thường hơn nhưng ở thời điểm ấy thì không thể dùng cụm từ nào khác) đến với độc giả từ Văn Nghệ: "Tướng về hưu" (Nguyễn Huy Thiệp), "Cái đêm hôm ấy đêm gì" (Phùng Gia
Cánh Bườm Nâu - Nguyễn Huy Thiệp - Tuyết Lê NguyễnĐìnhKhánh Cánh Cửa Xanh Hồng Nương Tử Cánh Hạc Cô Đơn - Sầu Đông - Yến Uyên Và Nguyễn Đ Khánh Cánh Hoa Chùm Gửi - Quỳnh Dao (18 tập) - Tịnh Khẩu đoc. Cánh Hoa Trong Gió - Hoàng Khởi Phong - Vạn Võ Diễn Đọc
o Tướng về hưu (Nguyễn Huy Thiệp) + Tiểu thuyết: o Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Tường) o Bến không chồng (Dương Hướng) o Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh) + Bút kí: Ai đã đặt tên cho dòng sông (Hoàng Phủ Ngọc Tường)
Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, 'như một lời chia tay'. Nhà báo Nguyễn Công Khế vừa có bài viết kể về những cảm xúc của ông sau khi được đọc bài điếu văn của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều ở tang lễ tiễn nhà văn Nguyễn Huy Thiệp sáng 24.3.2021 tại Hà Nội. Nhân đây ông cũng
Văn xuôi: Chiến thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu), Tướng về hưu (Nguyễn Huy Thiệp), Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Tường), Bến không chồng (Dương Hướng),.… Kịch: Hồn Trương Ba da hàng thịt, Tôi và chúng ta (Lưu Quang Vũ),
. Giải tríSáchLàng văn Thứ năm, 6/5/2021, 1704 GMT+7 Bản in đầu tiên "Tướng về hưu" - cuốn sách đầu tay của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp - được mang ra đấu giá gây quỹ trồng rừng, tưởng niệm ông. Phiên đấu giá trực tuyến kéo dài từ trưa 6/5 đến 16h45 ngày 8/5, dịp 49 ngày mất của nhà văn, với giá khởi điểm ba triệu đồng. Tiền bán sách được dùng để trồng một cánh rừng khoảng cây, tương đương 50 triệu đồng. Họa sĩ Lê Thiết Cương - người gửi sách đấu giá - nói có nhiều người tham gia qua điện thoại, Facebook, mức giá cao nhất đang là 30 triệu ban tổ chức, ý tưởng đấu giá xuất phát từ vợ chồng giáo sư Peter Zinoman - bạn của Nguyễn Huy Thiệp. Hôm 14/4, họ chuyển tiền tới một dự án trồng và phục hồi rừng trong nước với nội dung "Giáo sư Peter Zinoman trồng cây tưởng niệm nhà văn Nguyễn Huy Thiệp". Cả hai muốn trồng 70 cây - bằng số tuổi thọ của nhà văn. Bìa bản in đầu tiên của "Tướng về hưu". Lê Thiết Cương kể cách đây không lâu, anh gặp Nguyễn Duy Cường - nhà sưu tầm sách cũ, sở hữu cuốn sách. Ban đầu, Duy Cường từ chối vì chỉ có một cuốn, muốn giữ lại. Tuy nhiên, khi biết mục đích, anh đồng ý "bán" với giá 0 Duy Cường mua tác phẩm năm 2005, trong một tiệm sách cũ ở đường Láng, Hà Nội. Anh bất ngờ khi thấy Tướng về hưu bản in đầu tiên và có chữ ký của tác giả. Sách được anh bảo quản, trưng trên kệ nhiều năm qua. "Tôi đọc sách của Nguyễn Huy Thiệp từ nhỏ. Hiện trong nhà có một kệ sách dành riêng cho các tác phẩm của ông", anh về hưu ra mắt trên báo Văn nghệ năm 1987, gây chấn động văn đàn thời bấy giờ. Ban đầu, Nhà xuất bản Trẻ dự kiến in và phát hành nhưng phải hủy vì nhiều ý kiến phê phán Nguyễn Huy Thiệp viết về những vấn đề tiêu cực của xã hội. Cuối năm 1987, nhà thơ Nguyễn Duy - khi đó là Trưởng Văn phòng Thường trực các tỉnh phía Nam của báo, đề nghị Nhà xuất bản Trẻ phát hành sách. Báo Văn Nghệ chịu toàn bộ chi phí phát hành và trả nhuận bút cho tác giả. Bìa sách do họa sĩ Nguyễn Trọng Khôi vẽ miễn phí qua lời miêu tả của Nguyễn Duy. Anh Nguyễn Đình Phương - chủ một cơ sở sản xuất giấy thủ công - hỗ trợ in ấn, phát hành phi lợi năm 1987, sách ra lò nhưng chất lượng in thấp với giấy thủ công đen xỉn, mặt láng, mặt sần. Thi thoảng, trang sách còn hằn lên cả dằm tre như mẩu tăm, đôi chỗ bị mất chữ. Năm 1988, khi Nguyễn Duy ra Hà Nội, Nguyễn Đình Phương gửi tặng nhà văn Nguyễn Huy Thiệp chục tập sách kèm nhuận bút và lời chúc mừng tác giả. Chân dung nhà văn Nguyễn Huy Thiệp qua nét vẽ của họa sĩ Nguyễn Trọng Khôi trái và chữ ký của tác giả. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp qua đời hôm 20/3 ở Hà Nội, sau thời gian mắc tai biến. Sinh thời, ông được xem là hiện tượng độc đáo của văn đàn với những tác phẩm gây chấn động, nhờ bút pháp và chất liệu hiện thực. Trước khi mất, ông là một trong 50 tác giả được đề nghị xét tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học, Nghệ thuật với hai truyện ngắn Tướng về hưu, Những ngọn gió Hua Huy Thiệp sinh năm 1950 ở Thái Nguyên, quê gốc ở Hà Nội. Thuở nhỏ, ông cùng gia đình di tản qua nhiều vùng quê ở Thái Nguyên, Phú Thọ, Vĩnh Phúc. Ông tốt nghiệp khoa Lịch sử, Đại học Sư phạm Hà Nội. Ông xuất hiện trên văn đàn Việt Nam từ năm 1986, với một số truyện ngắn đăng trên Báo Văn nghệ đề tài nông thôn. Ngoài truyện ngắn, ông viết 10 vở kịch, bốn tiểu thuyết cùng nhiều tiểu luận, phê bình văn học gây chú ý. Một số tác phẩm nổi bật của ông gồm truyện ngắn Tướng về hưu, chuyển thể thành phim điện ảnh cùng tên năm 1988, Những ngọn gió Hua Tát tập truyện ngắn và kịch, 1989, Tiểu Long Nữ tiểu thuyết, 1996, Tuổi 20 yêu dấu tiểu thuyết, xuất bản ở Pháp năm 2002... Nhiều tác phẩm của ông được xuất bản tại Pháp, Italy, Mỹ, Đức như Tướng về hưu, Trái tim hổ, Sói trả thù, Chuyện tình kể trong đêm mưa...Hiểu Nhân
Cuốn sách dày 396 trang, giới thiệu 25 truyện ngắn, từ những truyện làm nên tên tuổi Nguyễn Huy Thiệp như "Sang sông", "Thương nhớ đồng quê", "Chuyện tình kể trong đêm mưa", “Đưa sáo sang sông”... đến những truyện được viết gần đây "Cà phê Hàng Hành", "Quan Âm chỉ lộ"... Truyện “Tướng về hưu” là một câu chuyện về gia đình nhưng lắng đọng trong đó là rất nhiều bi kịch và mâu thuẫn của những con người trong thời kỳ Đổi mới. Trong bức tranh gia đình ông Thuần, ta không thấy sự đói khổ, thiếu thốn về vật chất như những gia đình khác mà ở đó là sự dằn vặt trong nội tâm của từng thành viên trong gia đình. Tập truyện ngắn Tướng Về Hưu gồm có Đời thế mà vui Sang sông Thiên văn Chuyện tình kể trong đêm mưa Thương nhớ đồng quê Mưa Nhã Nam Chăn trâu cắt cỏ Thương cả cho đời bạc Hạc vừa bay vừa kêu thảng thốt Không khóc ở California Bài học Tiếng Việt Sống dễ lắm Đứa sáo sang sông Lòng mẹ Những người muôn năm cũ Như sương như khói bay Thổ cẩm Chuyện ông Móng Chuyện bà Móng Chú Hoạt tôi Những tiếng lòng líu la líu lo Cánh buồm nâu thuở ấy Cà phê Hàng Hành Quan âm chi lộ *** Nguyễn Huy Thiệp sinh năm 1950 tại Thanh Trì, Hà Nội. Từ nhỏ ông đã cùng gia đình lưu lạc khắp các miền nông thôn đồng bằng Bắc Bộ vì vậy những hình ảnh về con người, cảnh vật nơi thôn quê đã in đậm trong ký ức của ông. Ông được nhận xét là một bông hoa nở muộn trên văn đàn văn học Việt Nam. Những truyện ngắn đầu tiên của ông xuất hiện trên báo Văn nghệ của Hội nhà văn Việt Nam năm 1986. Không lâu sau đó các tác phẩm của ông được bàn luận sôi nổi trong làng văn cả trong lẫn ngoài nước. Có nhiều nhận xét trái chiều về văn phong của Nguyễn Huy Thiệp, người chê, kẻ khen ngợi nhưng cho tới nay cái tên Nguyễn Huy Thiệp vẫn gây ấn tượng trong lòng độc giả bởi những truyện ngắn đặc sắc và ấn tượng. Không chỉ viết văn Nguyễn Huy Thiệp còn biên kịch, những vở kịch của ông có thể kể đến là Xuân hồng, Còn lại tình yêu, Gia đình, Nhà tiên tri, Hoa sen nở ngày 29 tháng 4... Ông còn là người rất có khiếu làm thơ và kinh doanh. Tuy chưa có một tập thơ nào được xuất bản nhưng độc giả có thể tìm thấy khá nhiều bài thơ trong các truyện ngắn của ông. Năm 1994 ông gác bút và mở nhà hàng kinh doanh ở Hà Nội tên là Hoa Ban, hiện tại rất đông khách. Các sách đã xuất bản - Những ngọn gió Hua Tát, Nhà xuất bản Văn hóa, Hà Nội, 1989. - Tác phẩm và dư luận, Tạp chí Sông Hương - Nhà xuất bản Trẻ, Huế, 1989. - Nguyễn Huy Thiệp - Tác phẩm và dư luận, tác giả Nguyễn Huy Thiệp, Hoàng Ngọc Hiến, Tạ Ngọc Liễn, Thùy Sương, Đỗ Văn Khang, Nhà xuất bản Trẻ, 1990. - Tác phẩm và dư luận tái bản, Nhà xuất bản Hồng Lĩnh, California, 1991. - Con gái thủy thần, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, Hà Nội, 1993. - Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Nhà xuất bản Trẻ, 2003. - Xuân Hồng, Nhà xuất bản Tân Thư, California, 1994. - Như những ngọn gió, Nhà xuất bản Văn Học, Hà Nội, 1995. - Truyện ngắn chọn lọc Nguyễn Huy Thiệp, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, Hà Nội, 1995. - Thương cả cho đời bạc, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2000. - Mưa Nhã Nam, Nhà xuất bản Văn Học, Hà Nội, 2001. - Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Nhà xuất bản Phụ nữ, Hà Nội, 2001. - Suối nhỏ êm dịu kịch, Báo Văn nghệ, California, 2001. - Mổ nhà văn kịch, Trang mạng Talawas, Thích Thiện Ngân bút danh. - Tuổi hai mươi yêu dấu tiểu thuyết, Nhà xuất bản E’ditions de l’Aube, 2002. - Tuyển tập kịch Nguyễn Huy Thiệp, Nhà xuất bản Trẻ, 2003. - Như những ngọn gió tuyển tập, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1995. - Tiểu Long Nữ tiểu thuyết, Nhà xuất bản Công an nhân dân, 1996. - Giăng lưới bắt chim, Đông A - Nhà xuất bản Hội Nhà văn, Hà Nội, 2006. - Gạ tình lấy điểm tiểu thuyết, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2007. - Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết tập truyện ngắn, Nhà xuất bản Đa Nguyên *** Như một cánh cung, phố Hàng Hành bên hồ Hoàn Kiếm dài hơn trăm mét có đến mấy chục hàng ăn, hàng café, gallery, shop quần áo. Nghe nói ngày xưa đây là nơi bán hành tỏi, sau chuyển sang nghề tiện gỗ. Đền thờ tổ nghề tiện gỗ ở trong nhà số 11. Nghề tiện gỗ vốn là nghề truyền thống của làng Nhị Khê quê hương Nguyễn Trãi. Ở phố Hàng Hành có mấy di tích cổ là đình và đền làng Tả Khánh Thuỵ ở trong nhà số 23. Ngoài ra ở nhà số 40 còn đền Trúc Lâm là đền thờ các ông tổ của nghề thuộc da giầy là các ông Phạm Đức Chính, Phạm Sĩ Bân và Phạm Thuần Chính. Trước cửa đền Trúc Lâm bây giờ là nơi rửa xe máy. - Hà Nội đất Thánh!- Ông Vũ nhà ở phố Hàng Giầy trước đây vẫn ngồi ở gác hai nhà café Nhân thường nói- Hà Nội là đất Thánh nên đi đến đâu cũng là di tích! Ông Vũ là khách đặc biệt của café Nhân. Ông biết rõ café Nhân từ khi mới lập, cách đây năm mươi năm, khi ấy chỉ là một gian nhà hẹp ở phố Cầu Gỗ. Một dạo, ông Vũ chuyển sang uống ở café Lâm phố Nguyễn Hữu Huân. Lâm nổi tiếng vì chơi với nhiều văn nhân nghệ sỹ, về già lại hay cúng tiền công đức lên cho các chùa. Lâm mất, ông Vũ chuyển về uống ở café Mai phố Lương Ngọc Quyến. Năm 2000, Mai bị bắt vì buôn ma tuý, ông Vũ chuyển về uống ở café Nhân Hàng Hành. Ngày nào cũng vậy, cứ 9 giờ sáng và 5 giờ chiều, ông Vũ đều đặn hai lượt đến ngồi ở trên ban công gác hai nhìn xuống mặt đường, uống một ly café đen đá và hút thuốc lá Camel, đôi mắt xa xăm nhìn ngắm bóng chiều cứ xuống dần dần qua tán lá bàng. Thời gian trôi đi, tất cả rồi mất hút vào trong quên lãng, qua khói thuốc, qua ly café. Chớp mắt hốt nhiên đã hết veo một đời người ông Vũ chết vì bệnh ung thư ác tính vào năm 2003 thọ sáu mươi tuổi. Café Nhân là nơi bọn giai phố và đám thanh niên trẻ rất thích ngồi. Một nhóm họa sĩ thời thượng ở Hà Nội để râu xồm xoàm cũng hay ngồi đây, có một bàn đặt hẳn hoi được trả tiền trước. Bên cạnh bàn đặt của nhóm hoạ sĩ là bàn của hoa hậu Mai Phương Thuý và đám thuộc hạ của cô thỉnh thoảng cũng hay đến tán phét. Khách thập phương và Tây ba –lô cũng thích đến đây ăn sáng với món bánh mỳ sốt vang và trứng ốp –lếp. ... Mời các bạn đón đọc Tướng Về Hưu của tác giả Nguyễn Huy Thiệp.
Truyện “Tướng về hưu” là một câu chuyện về gia đình nhưng lắng đọng trong đó là rất nhiều bi kịch và mâu thuẫn của những con người trong thời kỳ Đổi mới. Trong bức tranh gia đình ông Thuần, ta không thấy sự đói khổ, thiếu thốn về vật chất như những gia đình khác mà ở đó là sự dằn vặt trong nội tâm của từng thành viên trong gia đình. Câu chuyện được kể lại qua lời của người con trai. Ta có thể cảm nhận được sự thay đổi của nhân vật này qua cách Nguyễn Huy Thiệp sử dụng câu cú, nửa đầu truyện đa số là mô tả nhân vật, hành động, sự kiện bằng những câu văn ngắn, không chứa đựng cảm xúc hay đánh giá gì của nhân vật, khiến người đọc cảm nhận nhân vật “tôi” là một người khô khan và xa rời thực tế. Ông như một cái bóng nhạt nhòa trong gia đình, lúc nào cũng “vợ tôi nói” và ông nhu nhược trong vai trò làm cha, làm chồng. Ở đây, hình mẫu gia đình truyền thống với người đàn ông làm chủ gia đình đã bị đảo lộn, bởi người vợ mới là người làm kinh tế, gia tăng thu nhập cho gia đình và đồng thời quyết định mọi chuyện, từ nơi ăn chốn ở cho từng người đến việc ma chay, cúng kiếng. Nhân vật Thủy là một người phụ nữ tháo vát và năng động, cô cũng biết quan tâm đến gia đình, nhưng chủ yếu là về nhu cầu vật chất, chứ không để ý gì đến đời sống tinh thần. Thủy có tính quyết đoán và phán xét mọi việc theo lý trí hơn là tình cảm. Công việc ở bệnh viện hay tại gia của cô đều là những việc mà xã hội không dễ dàng chấp nhận, qua đó ta cũng thấy được cách sống lý trí và rấ thực dụng của Thủy. Gia đình của Thuần có lẽ là một định nghĩa của NHT về hình mẫu gia đình hiện đại, “sống theo lối mới, suy nghĩ độc lập, nhìn nhận vấn đề xã hội tương đối giản dị” và đó cũng là nguyên nhân dẫn đến những mâu thuẫn ngầm trong gia đình. Gia đình ấy như một xã hội thu nhỏ, có cả người làm kinh doanh, người trí thức, tướng quân đội, người làm thuê, và những thành phần bất hảo của xã hội. Xung đột giữa họ cũng chính là xung độ của giai cấp trong xã hội thời Đổi mới. Giữa Thủy và ông Thuấn là sự xung đột giữa giới kinh doanh và những người cựu chiến binh. Trong khi Thủy sống rất thực tế, tính toan thì ông Thuấn vẫn sống trong hào quang cũ kỹ của một ông cựu thiếu tướng. Khi ông nghỉ hưu và được con dâu gợi ý nuôi vẹt, ông phản ứng rằng “Kiếm tiền à?”, ta có thể thấy được thái độ khinh thường của ông đối với việc kinh doanh và kiếm tiền. Ông Thuấn là hình ảnh cho những người lính bước ra từ cuộc chiến, đã quen với tác phong quân đội, với cuộc sống không cần lo cơm áo gạo tiền, chỉ lo chiến đấu, có thể nói ông đã bị một cú sốc văn hóa. Ông cũng không ca ngơi chiến tranh, ông sống trong hào quang nhưng cũng là nỗi dằn vặt sâu sắc mà người đọc có thể cảm nhận được qua câu chửi “Mẹ mày! Láo!” khi đứa cháu vô tình bảo “Đường ra trận mùa này đẹp lắm” hay trong cái ngậm ngùi “Đàn ông thằng nào có tâm thì nhục. Tâm càng lớn, càng nhục” và cả trong câu nghẹn ngào “ con không hiểu rằng cả tin chính là sức mạnh để sống hả con?” Cái sự “lúng túng, khổ sở,…kinh hãi, đau đớn” của ộng trong cái đám cưới “ô hợp, láo nháo thản nhiên rất đời” khiến người đọc thấy xót xa và thương cảm cho ông, một người “từng chôn ba nghìn người” giờ lại bất lực trước sự bát nháo của chính gia đình mình. Câu nói của Thủy “Cha là tướng, về hưu cha vẫn là tướng. Cha là chỉ huy…” nghe như một lời châm biếm sâu sắc, bởi chính trong gia đình ông, ông vẫn không được “quyền” “sống ở dãy nhà ngang với mẹ tôi”, không được giúp ông Cơ và cô Lài, đến cả việc đi đâu, làm gì của ông vẫn chịu ảnh hưởng bởi Thủy, người quản lý kinh tế của gia đình. Ta thấy thấp thoáng trong nhân vật Thủy là hình ảnh chính quyền, kiểm soát về kinh tế và đối xử với những cựu chiến binh một cách trân trọng giả tạo, tôn thờ tung hô nhưng cũng tước đi quyền lực của họ. Nhân vật ông Bổng cũng là một nhân vật khá đặc biệt khiến người đọc liên tưởng đến Chí Phèo của Nam Cao. Ông là người “ghê gớm, to như hộ pháp ăn nói văng mạng”. Ông mang tư tưởng của người bình dân, xem thường “Quân trí thức khốn nạn! Rẻ dân lao động!” nhưng vẫn không ngại ngùng đi vay tiền hay lợi dụng tang ma mà làm lợi cho riêng mình. Ông cũng có nỗi đau của riêng mình, bị “cả làng gọi là đồ chó. Vợ em gọi là đồ đểu. Thằng Tuân gọi em là khốn nạn” và chỉ có người mẹ già lú lẫn xem ông là người mà thôi. Giọt nước mắt của ông cũng như của Chí Phèo, giọt nước mắt của khao khát làm người lương thiện nhưng trong xã hội khó khăn này, không có cái danh phận của con nhà tướng, không có tiền bạc của người làm kinh doanh hay ít nhất là học thức của người trí thức thì những người bình dân không đủ sống bằng sự lương thiện của mình. Trong đám tang bà cụ, ngoài ông Thuấn và đứa con trai, chỉ có cô Lài dở người và ông Bổng “lỗ mãng, táo tợn” khóc thật tình, còn con dâu và những đứa cháu chẳng có tiếng khóc than, chỉ toàn những tiếng tính toán mâm cỗ thiệt hơn.
I Khi viết những dòng này, tôi đã thức tỉnh trong vài người quen những cảm xúc mà thời gian đã xóa nhòa, và tôi đã xâm phạm đến cõi yên tĩnh nấm mồ của chính cha tôi. Tôi buộc lòng làm vậy, và xin người đọc nể nang những tình cảm đã thúc đẩy tôi viết mà lượng thứ cho ngòi bút kém cỏi của tôi. Tình cảm này, tôi xin nói trước, là sự bênh vực của tôi đối với cha mình. Cha tôi tên là Thuấn, con trưởng họ Nguyễn. Trong làng, họ Nguyễn là họ lớn, số lượng trai đinh có lẽ chỉ thua họ Vũ. Ông nội tôi trước kia học Nho, sau về dạy học. Ông nội tôi có hai vợ. Bà cả sinh được cha tôi ít ngày thì mất, vì vậy ông tôi phải tục huyền. Bà hai làm nghề nhuộm vải, tôi không tường mặt, chỉ nghe nói là một người đàn bà cay nghiệt vô cùng. Sống với dì ghẻ, cha tôi trong tuổi niên thiếu đã phải chịu đựng nhiều điều cay đắng. Năm mười hai tuổi, cha tôi trốn nhà ra đi. Ông vào bộ đội, ít khi về nhà. Khoảng năm… cha tôi về làng lấy vợ. Chắc chắn cuộc hôn nhân này không do tình yêu. Mười ngày nghỉ phép bề bộn công việc. Tình yêu đòi hỏi điều kiện, trong đó thời gian cũng cần. Khi lớn lên, tôi chăng biết gì về cha mình cả. Tôi chắc mẹ tôi hiểu về cha tôi cũng ít. Cả đời cha tôi gắn với súng đạn, chiến tranh. Tôi đi làm, lấy vợ, sinh con. Mẹ tôi già đi. Cha tôi vẫn đi biền biệt. Thỉnh thoảng cha tôi cũng ghé về nhà, nhưng những lần về đều ngắn. Cả những bức thư cha tôi gửi về cũng ngắn, dầu rằng dưới những dòng chữ, tôi biết ở đấy ẩn chứa nhiều tình thương cùng với âu lo. Tôi là con một, tôi đã chịu ơn cha tôi về đủ mọi mặt. Tôi được học hành, được du ngoại. Cả những cơ sở vật chất gia đình cũng do cha tôi lo liệu. Ngôi nhà tôi ở ven nội, xây dựng trước khi cha tôi về hưu tám năm. Đấy là một biệt thự đẹp nhưng khá bất tiện, tôi đã xây cất dựa theo thiết kế của một chuyên gia kiến trúc trứ danh, bạn của cha tôi, ông này đại tá, chỉ thạo việc xây doanh trại. Năm bẩy mươi tuổi, cha tôi về hưu với hàm thiếu tướng. Mặc dầu biết trước, tôi vẫn ngỡ ngàng khi cha tôi về. Mẹ tôi đã lẫn bà hơn cha tôi sáu tuổi, vì vậy thực ra ở nhà chỉ có mình tôi có những tình cảm đặc biệt với sự kiện này. Mấy đứa con tôi còn bé. Vợ tôi biết ít về ông, vì hai chúng tôi lấy nhau khi mà cha tôi đang bặt tin tức. Bấy giờ đang có chiến tranh. Tuy thế, ở trong gia đình, cha tôi bao giờ cũng là hình ảnh của niềm vinh dự, tự hào. Cả ở trong họ, trong làng, tên tuổi cha tôi cũng được mọi người ngưỡng vọng. Cha tôi về nhà, đồ đạc đơn sơ. Cha tôi khỏe. Ông bảo “Việc lớn trong đời cha làm xong rồi! Tôi bảo “Vâng”. Cha tôi cười. Tâm trạng xúc động lây sang cả nhà, mọi người chuếnh choáng đến nửa tháng trời, sinh hoạt tùy tiện, có hôm mười hai giờ đêm mới ăn cơm chiều. Khách khứa đến chơi nườm nượp. Vợ tôi bảo “Không để thế được”. Tôi cho mổ lợn, đi mời họ hàng làng nước đến để chia vui. Làng tôi tuy gần thành phố nhưng mà tập tục nông thôn còn giữ. Đúng một tháng sau, tôi mới có dịp ngồi với cha tôi bàn chuyện gia đình. II Trước khi kể tiếp, xin nói về gia đình tôi. Tôi ba mươi bẩy tuổi, là kỹ sư, làm việc ở Viện Vật lý. Thủy, vợ tôi, là bác sĩ, làm việc ở bệnh viện sản. Chúng tôi có hai con gái, đứa mười bốn, đứa mười hai. Mẹ tôi lẫn lộn, suốt ngày chỉ ngồi một chỗ. Ngoài những người trên, gia đình tôi còn có ông Cơ và cô con gái gàn dở của ông. Ông Cơ sáu mươi tuổi, quê Thanh Hóa. Vợ tôi gặp cha con ông khi nhà của họ bị cháy, cơ nghiệp mất sạch. Thấy cha con ông tốt bụng, đáng thương, vợ tôi sắp xếp cho họ ở với chúng tôi. Cha con ông ở dưới nhà ngang, sinh hoạt riêng rẽ nhưng mọi chế độ thì do vợ tôi chu cấp. Không có hộ khẩu, họ không có những tiêu chuẩn lương thực, thực phẩm như những người dân khác trong thành phố. Ông Cơ hiền lành, chịu khó. Thường ông đảm nhiệm việc chăm vườn tược, lợn gà và đàn chó giống. Nhà tôi nuôi chó béc-giê. Tôi cũng không ngờ việc kinh doanh chó lại thu lợi lớn. Khoản thu này trội nhất trong nhà. Cô Lài mặc dầu gàn dở nhưng lại xốc vác và nội trợ giỏi. Vợ tôi dạy cô cách thức nấu bóng, nấu nấm, nấu gà hầm. Cô bảo ” Cháu chẳng ăn thế bao giờ”. Cô không ăn thật. Cả hai vợ chồng và hai con tôi không phải lo toan công việc gia đình. Từ ăn uống, giặt giũ, tất cả giao cho hai người giúp việc. Vợ tôi cầm chịch các khoản chi tiêu. Tôi bận nhiều việc, hiện đang vùi đầu vào công trình ứng dụng điện phân. Cũng cần nói thêm quan hệ tình cảm của vợ chồng tôi êm thấm. Thủy có học thức, sống theo lối mới. Chúng tôi suy nghĩ độc lập, nhìn nhận vấn đề xã hội tương đối giản dị. Thủy am tường các việc lo liệu kinh tế cũng như dạy dỗ con cái. Còn tôi, hình như tôi khá cổ hủ, đầy bất trắc và thô vụng. III Tôi quay lại đoạn kể cha con tôi bàn việc gia đình. Cha tôi bảo “Nghỉ rồi, cha làm gì?” Tôi bảo “Viết hồi ký”. Cha tôi bảo ”Không!” Vợ tôi bảo ”Cha nuôi vẹt xem. Trên phố dạo này nhiều người nuôi chim hoạ mi, chim vẹt.” Cha tôi bảo “Kiếm tiền à?” Vợ tôi không trả lời. Cha tôi bảo “Để xem đã!” Cha tôi cho mỗi người trong nhà bốn mét vải lính. Ông Cơ và cả cô Lài cũng thế. Tôi cười “Cha bình quân! ” Cha tôi bảo “Đấy là lẽ sống”. Vợ tôi bảo “Cả nhà đồng phục thì thành doanh trại”. Mọi người cười ồ. Cha tôi muốn ở một phòng dưới dãy nhà ngang giống như mẹ tôi. Vợ tôi không chịu. Cha tôi buồn. Việc để mẹ tôi ăn riêng, ở riêng làm ông bứt rứt. Vợ tôi bảo Tại mẹ lẫn”. Cha tôi đăm chiêu. Tôi cũng không hiểu sao hai đứa con gái của tôi ít gần ông nội. Tôi cho chúng học ngoại ngữ, học nhạc. Chúng lúc nào cũng bận. Cha tôi bảo “Các cháu có sách gì mang cho ông đọc”. Cái Mi cười. Còn cái Vi bảo “Ông thích đọc gì?” Cha tôi bảo ” Cái gì dễ đọc”. Hai đứa bảo “Thế thì không có”. Tôi đặt báo hàng ngày cho ông. Cha tôi không thích văn học. Văn chương nghệ thuật bây giờ đọc rất khó vào. Một hôm tôi đi làm về, cha tôi đứng ở dãy nhà vợ tôi nuôi chó và gà công nghiệp. Trông ông không vui. Tôi hỏi ” Có chuyện gì thế?” Ông bảo “Ông Cơ và cô Lài vất vả quá. Họ làm không hết việc, cha muốn giúp họ được không?” Tôi bảo “Để con hỏi Thủy”. Vợ tôi bảo “Cha là tướng, về hưu cha vẫn là tướng. Cha là chỉ huy. Cha mà làm lính thì dễ loạn cờ”. Cha tôi không nói năng gì. Cha tôi nghỉ hưu nhưng khách khứa nhiều. Điều đó làm tôi ngạc nhiên, thậm chí thích thú. Vợ tôi bảo “Đừng mừng… họ chỉ nhờ vả. Cha ạ, cha đừng làm gì quá sức”. Cha tôi cười “Chẳng có gì đâu… cha chỉ viết thư. Thí dụ Thân gửi N. tư lệnh quân khu… Tôi viết thư này cho cậu… Hơn năm mươi năm, đây là lần đầu tôi ăn tết mồng ba tháng ba dưới mái nhà mình. Hồi ở chiến trường, hai đứa chúng mình đã từng mơ ước v. v… Cậu nhớ cái xóm ven đường, cô Huệ đã làm bánh trôi bằng bột mì mốc. Bột mì bê bết trên lưng Nhân đây M. là người tôi quen, muốn được công tác dưới quyền của cậ u “. Cha viết như thế được không?” Tôi bảo “Được”. Vợ tôi bảo ”Không được!” Cha tôi gãi cằm ”Người ta nhờ mình”. Cha tôi thường bỏ thư viết vào phong bì đựng công văn bằng giấy cứng, cỡ 20×30, trên có in chữ Bộ quôé phòng, rồi đưa cho người nhờ vả mang đi. Sau ba tháng, hết sạch loại phong bì ấy. Ông làm phong bì bằng giấy bìa học sinh cũng to bằng cỡ 20×30. Một năm sau, ông cho thư vào thứ phong bì bình thường vẫn bán ở quầy bưu điện, giá năm đồng một chục cái. Tháng bảy năm ấy, tức là ba tháng sau ngày cha tôi về nghỉ, chú họ tôi, ông Bổng, cưới vợ cho con. IV Ông Bổng với cha tôi là anh em cùng cha khác mẹ. Thằng Tuân con trai ông làm nghề đánh xe bò. Hai cha con đều ghê gớm, to như hộ pháp, ăn nói văng mạng. Thằng Tuân lấy vợ lần này là lần thứ hai. Vợ trước bị đánh đau quá, bỏ đi. Ra tòa, nó khai là vợ theo trai, tòa phải chịu. Cô vợ lần này tên là Kim Chi, làm nghề nuôi dạy trẻ, con nhà có học hẳn hoi, xí xớn thế nào nghe nói có thai với nó. Kim Chi là cô gái đẹp, làm vợ thằng Tuân đúng là “hoa nhài cắm bãi cứt trâu”. Thâm tâm chúng tôi không ưa cha con ông Bổng, khốn nỗi “một giọt máu đào hơn ao nước lã”, giỗ tết vẫn phải đi lại, nhưng mà ngày thường cũng nhạt. Ông Bổng hay nói “Quân trí thức khốn nạn! Rẻ dân lao động! Nể bố nó, không tôi cạch cửa!” Nói thế thôi, ông Bổng vẫn sang vay tiền. Vợ tôi khe khắt, bao giờ cũng bắt ông phải ký cược. Ông Bổng rất ức, ông nói “Mình là chú nó, trót vay nợ nó mà nó cư xử hệt như địa chủ”. Nhiều món nợ ông cứ lờ đi không trả. Cưới vợ cho con, ông Bổng nói với cha tôi “Anh phải đứng ra chủ hôn, bố cháu Kim Chi vụ phó, anh là tướng, thế là “môn đăng hộ đôí “. Sau này các cháu nhờ phúc của ông, như tôi là thằng phu xe, báu gì. ” Cha tôi bằng lòng. Đám cưới ngoại ô lố lăng và khá dung tục. Ba ô tô. Thuốc lá đầu lọc nhưng gần cuối tiệc hết sạch, phải thay bằng thuốc lá cuốn. Năm mươi mâm cỗ nhưng ế mười hai. Chàng rể mặc comlê đen, cravat đỏ. Tôi phải cho mượn cái cravat đẹp nhất trong tủ áo. Nói là mượn, chắc gì đòi được. Phù rể là sáu thanh niên ăn mặc hệt nhau, đều quần bò, râu ria rất hãi. Đầu tiệc là dàn nhạc sống chơi bài Ave Maria. Một anh cùng hợp tác xã xe bò thằng Tuân nhảy lên đơn ca một bài khủng khiếp Ù ê cái con gà quay Ta đi lang thang khắp miền giang hồ Tìm nơi nào có tiền Tiền ơi, mau vào túi ta Ù… e… cái con gà rù… Sau đó đến lượt cha tôi. Ông luống cuống, khổ sở. Bài văn chuẩn bị công phu hóa thừa. Kèn clarinét đệm rất bậy bạ sau dấu chấm câu. Pháo ầm ĩ. Trẻ con bình luận nhảm nhí. Cha tôi nhảy cóc từng đoạn. Ông cầm tờ giấy mà run bắn người. Một sự ô hợp láo nháo thản nhiên rất đời, thô thiển, thậm chí còn ô trọc nữa làm ông kinh hãi, đau đớn. Ông vụ phó thông gia cũng đâm hoảng hốt, luống cuống, làm đổ cả rượu xuống váy cô dâu. Chẳng nghe thấy gì. Dàn nhạc sống át đi bằng nhừng ca khúc vui vẻ quen thuộc của các ban nhạc Beatles và Abba. Sau đó, rắc rối đầu tiên đến với cha tôi là việc Kim Chi sinh cháu chỉ sau hôm cưới chục ngày. Gia đình ông Bổng bê bối. Ông say rượu, tống cổ cô con dâu ra cửa. Thằng Tuân cầm dao chém bố, may trượt. Vô phương, cha tôi phải đón cháu dâu về nhà. Gia đình tôi thêm hai khẩu. Vợ tôi không nói năng gì Cô Lài thêm một trách nhiệm. Được cái cô Lài vô tâm, tính lại yêu trẻ. V Một tối, tôi đang đọc Sputnhich, cha tôi lặng lẽ đi vào. Ông bảo ”Cha muốn nói chuyện với con”. Tôi pha cà phê, cha tôi không uống. Ông hỏi ”Con có để ý công việc của Thủy không con? Cha cứ rờn rợn”. Vợ tôi làm việc ở bệnh viện sản, công việc là nạo phá thai. Hàng ngày các rau thai nhi bỏ đi, Thủy cho vào phích đá đem về. Ông Cơ nấu lên cho chó, cho lợn. Thực ra điều này tôi biết nhưng cũng bỏ qua, chẳng quan trọng gì. Cha tôi dắt tôi xuống bếp, chỉ vào nồi cám, trong đó có các mẩu thai nhi bé xíu. Tôi lặng đi. Cha tôi khóc. Ông cầm phích đá ném vào đàn chó béc giê “Khốn nạn! Tao không cần sự giàu có này.” Đàn chó sủa vang. Ông bỏ lên nhà. Vợ tôi di vào nói với ông Cơ “Sao không cho vào máy xát? Sao để ông biết?!” Ông Cơ bảo ”Cháu quên, cháu xin lỗi mợ”. Tháng mười hai, vợ tôi gọi người bán sạch đàn chó béc giê. Vợ tôi bảo “Anh thôi hút thuốc Galăng đi. Năm nay nhà mình hụt thu hai mươi bảy nghìn, chi lạm mười tám nghìn, cộng là bốn mươi lăm nghìn”. Kim Chi hết thời gian nghỉ, đi làm. Nó bảo ”Cám ơn anh chị, em đưa con về nhà đây”. Tôi hỏi “Về đâu?” Thằng Tuân đã bị bắt giam vì tội côn đồ. Kim Chi đưa con về nhà của bố mẹ đẻ. Cha tôi đưa về tận nơi bằng xe tắcxi thuê riêng. Cha tôi ở chơi với ông vụ phó bố của Kim Chi một ngày. Ông này vừa đi công tác ở ấn Độ về, ông biếu cha tôi một mảnh lụa hoa và nửa lạng cao tổng hợp. Cha tôi cho cô Lài mảnh lụa hoa, cho ông Cơ nửa lạng cao. Trước tết Nguyên đán, ông Cơ nói với hai vợ chồng tôi “Cháu xin cậu mợ một việc”. Vợ tôi hỏi “Việc gì?” ông Cơ nói vòng vèo, chẳng đâu vào đâu. Đại để ông muốn về thăm quê. ở với chúng tôi sáu năm, cũng có dành dụm, ông Cơ muốn về bốc mộ bà vợ. Để lâu ngày chắc ván đã sụt. Nghĩa tử là nghĩa tận”. ở thành phố, cũng muốn về thăm họ hàng làng xóm cho nó mát mặt. Bây giờ đã vậy, sau này “cáo chết ba năm quay đầu về núi”. Vợ tôi cắt lời “Thế bao giờ đi?” ông Cơ gãi đầu “Đi mười ngày, về Hà Nội trước hăm ba tết”. Vợ tôi tính “Được. Anh Thuần này Thuần là tên tôi, anh có nghỉ phép được không? Tôi bảo “Được”. Ông Cơ bảo “Chúng cháu muốn mời ông về quê chơi. Như đi du lịch”. Vợ tôi bảo “Tôi không thích. Thế ông bảo sao?” ông Cơ bảo “Ông đồng ý rồi. Không có ông, cháu cũng chẳng nhớ đến việc cải mộ nhà cháu. Vợ tôi hỏi “Thế hai cha con có bao nhiêu tiền?” ông Cơ bảo “C háu có ba nghìn, ông cho hai nghìn là năm”. Vợ tôi bảo “Được, đừng lấy hai nghìn của ông, tôi bù cho hai nghìn ấy, lại cho thêm năm nghìn. Thế là hai cha con có chục nghìn. Đi được”. Trước hôm đi, vợ tôi làm cơm. Cả nhà ngồi ăn, có cả ông Cơ, cô Lài. Cô Lài vui lắm, mặc bộ quần áo mới may bằng vải cha tôi cho hôm về. Cái Mi và Cái Vi trêu “Chị Lài xinh nhất”. Cô Lài cười thỏn thẻn “Chả phải. Mợ mới xinh nhất”. Vợ tôi bảo “Em đi chú ý đỡ ông những khi tàu xe”. Cha tôi bảo “Hay thôi không đi?” ông Cơ giãy nảy “Chết, cháu đã điện rồi Mang tiếng chết”. Cha tôi thở dài “Tôi có tiếng gì mà mang?” VI Cha tôi đi Thanh Hóa cùng ông Cơ và cô Lài vào sáng chủ nhật. Tối thứ hai, tôi đang xem tivi thì nghe tiếng “huỵch, vội chạy ra ngoài thấy mẹ tôi ngã gục góc vườn. Mẹ tôi lẫn bốn năm nay, cho ăn biết ăn, cho uống biết uống, phải giục đi ngoài. Mọi hôm có cô Lài săn sóc không sao. Hôm nay, tôi sơ ý, cho ăn mà không giục đi ngoài. Tôi đỡ mẹ tôi vào, bà cụ cứ gục mặt xuống. Không thấy có vết đau. Nửa đêm tôi dậy, thấy mẹ tôi lạnh toát, mắt dại đi. Tôi sợ, gọi vợ tôi. Thủy bảo “Mẹ già rồi”. Hôm sau mẹ tôi không ăn, hôm sau nữa, cũng không ăn, không chủ động đi ngoài. Tôi giặt giũ, thay chiếu. Có ngày mười hai lần. Tôi biết Thủy và hai con tôi ưa sạch sẽ nên tôi thay giặt luôn, không giũ ở nhà mà mang ra tận kênh đào. Thuốc đổ vào cứ trớ ra. Hôm thứ bẩy, mẹ tôi bỗng ngồi dậy được. Đi lững thững một mình ra vườn. ăn được cơm. Tôi bảo ” Mừng rồi”. Vợ tôi không nói năng gì, chiều hôm ấy thấy mang về chục mét vải trắng, lại gọi cả thợ mộc. Tôi hỏi “Chuẩn bị à?” Vợ tôi bảo “Không”. Hai hôm sau, mẹ tôi nằm liệt, lại bỏ ăn, lại đi ngoài như cũ. Người dốc nhanh, thải ra thứ nước nâu sền sệt rất khắm. Tôi đổ sâm. Vợ tôi bảo Đừng đổ sâm, khổ cho mẹ”. Tôi òa khóc. Rất lâu tôi mới òa khóc như thế. Vợ tôi nín lặng, rồi lại bảo “Tùy anh. Ông Bổng sang thăm. Ông nói Bà ấy cứ xoay ngang, xoay dọc trên giường như thế này là gay go lắm đấy! Lại hỏi Chị ơi, chị có nhận ra em không?. Mẹ tôi bảo ” Có”. Lại hỏi “Thế em là ai?” Mẹ tôi bảo “Là người”. Ông Bổng khóc òa lên “Thế là chị thương em nhất. Cả làng cả họ gọi em là đồ chó. Vợ em gọi em là đồ đểu. Thằng Tuân gọi em là đồ khốn nạn. Chỉ có chị gọi em là người”. Lần đầu tiên, cái ông chú đánh xe bò, lỗ mãng, táo tợn, làm đủ mọi điều phi nhân bất nghĩa hóa thành đứa trẻ ngay trước mắt tôi. VII Cha tôi về đến nhà thì sáu tiếng sau mẹ tôi mất. Ông Cơ và cô Lài nói “Tại chúng cháu. Chúng cháu ở nhà thì bà không mất”. Vợ tôi bảo “Nói nhảm”. Cô Lài khóc “Bà ơi, bà đánh lừa con bà đi! Sao bà không cho con đi hầu bà?” ông Bổng cười “Mày muốn đi hầu bà thì đi, tao cho đóng ván. Khi liệm mẹ tôi, cha tôi khóc. Ông hỏi ông Bổng “Sao người bà ấy rút nhanh thế? Người già ai cũng chết khổ như thế này à?” ông Bổng bảo Anh lẩm cẩm. Hôm nào nước mình cũng có hàng nghìn người chết khổ nhục vật vã đau đớn. Mỗi lính tráng các anh, “đòm” phát là sướng”. Tôi cho bắc rạp, bảo thợ mộc đóng quan tài. Ông Cơ cứ loay hoay bên đống ván vợ tôi cho xẻ hôm trước. Ông thợ mộc quát “Sợ chúng ông ăn cắp gỗ à?” ông Bổng hỏi “Ván mấy phân?” Tôi bảo “Bốn phân”. Ông Bổng bảo “Mất mẹ bộ xa lông Ai lại đi đóng quan tài bằng gỗ dổi bao giờ? Bao giờ bốc mộ, cho chú bộ ván”. Cha tôi ngồi âm thầm, trông rất đau đớn. Ông Bổng bảo “Chị Thủy luộc cho tôi con gà, nấu hộ nồi xôi”. Vợ tôi hỏi “Mấy cân gạo hả chú?” Ông Bổng bảo “Mẹ mày, sao hôm nay cứ ngọt xớt thế? Ba cân”! Vợ tôi bảo tôi “Họ hàng nhà anh kinh bỏ mẹ”. Ông Bổng hỏi tôi “Nhà này ai chủ trì kinh tê?” Tôi bảo “Vợ cháu”. Ông Bổng bảo “Đấy là ngày thường. Tao hỏi đám ma này thì ai chủ trì kinh tế”” Tôi bảo “Vợ cháu”. Ông Bổng bảo “Không được con ơi, khác máu tanh lòng. Tao bảo bố mày nhé”. Tôi bảo Ông dể con”. Ông Bổng bảo “Đưa tao bốn nghìn, mày định làm bao nhiêu mâm?” Tôi bảo “Mười mâm”. Ông Bổng bảo “Không đủ cho đô tùy rửa ruột. Mày bàn với vợ mày đi. Bốn mươi mâm”. Tôi đưa cho ông bốn nghìn rồi vào nhà. Vợ tôi bảo Em nghe hết rồi, em tính ba chục mâm, tám trăm đồng một mâm, ba tám hai tư. Hai tư nghìn, phụ phí sáu nghìn. Việc mua bán em lo. Cỗ giao cho cô Lài. Đừng nghe ông Bổng, lão ấy đểu lắm”. Tôi bảo “ông Bổng cầm bốn nghìn rồi”. Vợ tôi bảo “Buồn anh lắm”. Tôi bảo “Anh đòi lại nhé”. Vợ tôi bảo “Thôi, coi như trả công. Lão ấy tốt nhưng nghèo. Phường bát âm đến bốn người. Cha tôi ra tiếp. Nhập quan lúc bốn giờ chiều. Ông Bổng cạy miệng mẹ tôi cho vào chín đồng vừa tiền chinh Khải Định, vừa tiền một hào nhôm. Ông bảo Để đi đò”. Lại cho vào cỗ bài tổ tôm, có lẫn cả mấy quân tam cúc. Ông bảo “Không sao, ngày xưa bà ấy vẫn chơi tam cúc”. Đêm ấy, tôi thức canh quan tài mẹ tôi, ngẫm nghĩ lan man đủ điều. Cái chết sẽ đến với mỗi chúng ta, chẳng trừ ai cả. Ngoài sân, ông Bổng với mấy bác đô tùy ngồi đánh tam cúc àn tiền. Khi nào kết tốt đen, ông Bổng lại chạy vào vái quan tài mẹ tôi Lạy chị, chị phù hộ cho em để em vét thật nhẵn túi chúng nó”. Cái Mi, cái Vi cũng thức với tôi. Cái Mi hỏi “Sao chết đi qua đò cũng phẫi trả tiền? Sao lại cho tiền vào miệng bà?” Cái Vi bảo “Đấy có phải ngậm miệng ăn tiền không bố”” Tôi khóc “Các con không hiểu đâu. Bố cũng không hiểu, đấy là mê tín”. Cái Vi bảo “Con hiểu đấy. Đời người cần không biết bao nhiêu là tiền. Chết cũng cần”. Tôi thấy cô đơn quá. Các con tôi cũng cô đơn. Cả đám đánh bạc, cả cha tôi nữa. VIII Từ nhà tôi ra nghĩa dịa đi tắt chỉ năm trăm mét nhưng đi đường chính qua cổng làng phải hai cây số. Đường bé, không đẩy xe đòn được mà phải khiêng vai. Đô tùy thay nhau đến ba chục người, có nhiều người vợ chồng tôi không biết tên gì. Họ khênh quan tài hồn nhiên như việc bình thường vẫn làm, như khênh cột nhà. Vừa đi vừa nhai trầu, hút thuốc, tán chuyện. Khi nghỉ, đứng ngồi ngổn ngang ngay bên quan tài. Có người nằm lăn ra nói “Mát thật, không bận cứ ngủ ở đây đến tối”. Ông Bổng bảo “Các bố ơi, đi đi còn về nhắm”. Thế là đi. Tôi chống gậy giật lùi trước quan tài theo tục lệ, cha đưa mẹ đón. Ông Bổng bảo “Bao giờ tôi chết, đô tùy của tôi toàn dân cờ bạc, cỗ không thịt lợn mà thịt chó”. Cha tôi bảo “Chú ơi, lúc này mà chú đùa à?” Ông Bổng nín bặt, lại khóc “Chị ơi, chị đánh lừa em chị đi… Chị bỏ em chị đi… “. Tôi nghĩ “Sao lại đánh lừa? Chẳng lẽ người chết đều đã đánh lửa người sống cả sao? Bãi tha ma này toàn quân lừa lọc?” Chôn cất xong, mọi người về nhà. Bày ra một lúc hai mươi tám mâm. Nhìn mâm cỗ, tôi thật kính trọng cô Lài. Mâm nào cũng gọi “Lài đâu?” Cô Lài miệng dạ tíu tít, chạy ra bê rượu, bê thịt. Đến tối, cô Lài tắm giặt, mặc quần áo mới ra hương án khóc “Bà ơi, cháu xin lỗi bà, cháu không đưa bà ra đồng… Hôm trước bà thèm canh cua, cháu ngại làm, bà chẳng được ăn… Bây giờ đi chợ, cháu biết mua quà cho ai?… ” Tôi thấy đắng ngắt. Tôi nhớ đã chục năm nay tôi chưa lần nào mua được cho mẹ chiếc bánh hay là gói kẹo. Cô Lài lại khóc “Cháu ở nhà thì bà có chết không bà?” Vợ tôi bảo “Đừng khóc. Tôi cáu “Cứ để cho cô ấy khóc, đám ma không có tiếng khóc buồn lắm. Nhà mình có ai biết khóc bà cụ thế đâu? Vợ tôi bảo “Ba mươi hai mâm. Anh phục em tính sát không?” Tôi bảo ” Sát. Ông Bổng bảo “Tôi đi xem giờ. Bà cụ được một cái nhập mộ, hai cái trùng tang, một cái thiên di. Có yểm bùa không?” Cha tôi bảo “Bùa con khỉ. Trong đời mình, tôi chôn ba nghìn người chẳng có người nào thế này”. Ông Bổng bảo “Thế là sướng, “đòm” phát là xong”. Ông giơ một ngón tay trỏ làm hiệu bóp cò. IX Tết năm đó, nhà tôi không mua hoa đào, không gói bánh chưng. Chiều mồng hai, đơn vị cũ của cha tôi cho người về viếng mẹ tôi. Biếu năm trăm đồng. Ông Chưởng, phó của cha tôi bây giờ lên tướng, ra mộ thắp hương. Anh Thanh đại úy cần vụ đi theo rút súng bắn ba phát lên trời. Sau này, trẻ con trong làng kháo bộ đội bắn hai mốt phát đại bác viếng bà Thuấn. Ông Chưởng hỏi cha tôi “Anh muốn về thăm đơn vị dối già không? Tháng năm tập trận. Đơn vị cho xe về đón”. Cha tôi bảo Được”. Ông Chưởng đi thăm cơ ngơi nhà tôi, có ông Cơ hướng dẫn. Ông Chưởng bảo cha tôi “Cơ ngơi của anh ác thật. Vườn cây, ao cá, chuồng lợn, chuồng gà, biệt thự. Thế là vững tâm”. Cha tôi bảo “Con tôi làm đấy”. Tôi bảo “Đấy là vợ cháu”. Vợ tôi bảo “Cô Lài chứ! ” Cô Lài cười thỏn thẻn, dạo này dầu cứ gật gật liên hồi như bị động kinh “Chả phải”. Cha tôi đùa “Thế thì do mô hình “. Sáng mồng ba, Kim Chi đi xích lô bế con về thăm. Vợ tôi mừng tuổi một nghìn. Cha tôi hỏi Thằng Tuân có thư từ gì không?” Kim Chi bảo “Không”. Cha tôi bảo “Lỗi ở bác đấy. Tao không biết mày có chửa”. Vợ tôi bảo “Chuyện ấy là thường. Bây giờ làm gì còn có trinh nữ. Con làm ở bệnh viện sản, con biết”. Kim Chi ngượng. Tôi bảo “Đừng nói thế, nhưng mà làm trinh nữ thì mệt thật”. Kim Chi khóc “Anh ơi, đàn bà chúng em nhục lắm. Đẻ con gái ra em cứ nát ruột nát gan”. Vợ tôi bảo “Tôi còn hai con gái cơ”. Tôi bảo “Thế các người tưởng làm đàn ông thì không nhục à?” Cha tôi bảo “Đàn ông thằng nào có tâm thì nhục. Tâm càng lớn, càng nhục”. Vợ tôi bảo ”Nhà mình nói năng như điên khùng cả. Thôi đi ăn. Hôm nay có cô Kim Chi, tôi đãi mỗi người một con gà hầm tâm sen. Tâm đấy. Ăn là trên hết”. X Gần nhà tôi ở có cậu Khổng, trẻ con gọi là Khổng Tử. Khổng làm ở xí nghiệp nước mắm nhưng lại thích thơ, làm thơ gửi báo Văn nghệ. Khổng hay sang chơi. Khổng bảo “Thơ siêu nhất.” Cậu đọc cho tôi nghe Loócca, Uýtxman v. v… Tôi không thích Khổng, ngờ ngợ cậu ta sang chơi vì một cái gì phiêu lưu còn hơn cả thơ ca nữa. Một bận, thấy trong giường của vợ tôi có một tập thơ chép tay. Vợ tôi bảo “Thơ của cậu Khổng, anh có đọc không?” Tôi lắc đầu. Vợ tôi bảo “Anh già rồi”. Bất giác tôi thoáng rùng mình. Một hôm bận trực cơ quan nên tôi về muộn. Cha tôi đón cổng, ông bảo “Thằng Khổng sang chơi từ chập tối. Nó với vợ mày cứ rúc rích với nhau, bây giờ chưa về, chướng quá”. Tôi bảo “Cha đi ngủ đi, để ý làm gì?” Cha tôi lắc đầu, bỏ đi lên gác. Tôi dắt xe máy ra đường, phóng lang thang khắp phố cho kỳ hết xăng. Tôi dắt xe đến ngồi ở một góc vườn hoa như một tên du thủ du thực. Có một cô mặt đánh phấn đi ngang qua hỏi “Ông anh ơi, có đi chơi không?” Tôi lắc đầu. Khổng có ý tránh mặt tôi. Ông Cơ ghét lắm, một hôm bảo tôi “Cháu đánh nó nhé?” Suýt tôi gật đầu. Lại nghĩ “Thôi”. Tôi vào thư viện mượn thử ít sách. Đọc Loócca, Uýtxman… tôi cứ mơ hồ thấy những nghệ sĩ trác tuyệt là những con người cô đơn khủng khiếp. Bỗng thấy thằng Khổng có lý. Chỉ tức nó đểu. Sao nó không đưa thơ nó cho người khác xem mà lại đưa cho vợ tôi? Cha tôi bảo “Anh nhu nhược. Duyên do là anh đếch sống được một mình. Tôi bảo “Không phải, cuộc đời nhiều trò dùa lắm”. Cha tôi bảo “Anh cho là trò đùa à?” Tôi bảo “Không phải trò đùa, nhưng cũng không phải nghiêm trọng”. Cha tôi bảo “Sao tôi cứ như lạc loài? Cơ quan định cử tôi đi công tác phía Nam. Tôi bảo vợ tôi “Anh đi nhé?” Vợ tôi bảo “Đừng đi. Mai anh sửa cửa nhà tắm, cái cửa hỏng rồi. Hôm nọ cái Mi đang tắm, thằng Khổng đi qua định giở trò đểu làm nó hết hồn. Thằng khốn nạn ấy em cấm cửa rồi”. Vợ tôi òa khóc “Em thật có lỗi với anh, với con”. Tôi khó chịu quay đi. Nếu có cái Vi bây giờ thì nó sẽ hỏi tôi rằng “Bố ơi, đấy có phải nước mắt cá sấu không?” XI Tháng Năm, đơn vị cũ cho xe về đón cha tôi. Anh Thanh đại úy cầm thư của ông Chưởng về. Cha tôi cầm thư run run. Thư viết “… Chúng tôi cần anh, mong anh… nhưng anh đi được thì đi, không ép”. Tôi nghĩ cha tôi không nên đi nữa nhưng nói ra bất tiện. Cha tôi già sụp hẳn đi từ khi về hưu. Hôm nay cầm thư, thấy ông nhanh nhẹn và trẻ trung hẳn. Tôi cũng vui lây. Vợ tôi chuẩn bị đồ đạc cho vào cái sắc du lịch. Cha tôi không nghe, ông bảo “Cho vào ba lô”. Cha tôi đi chào làng nước một lượt, ra cả ngoài mộ mẹ tôi, lại bảo anh Thanh bắn ba phát súng lên trời. Buổi tối cha tôi gọi ông Cơ đến cho hai nghìn, bảo khắc một cái bia dá gửi về Thanh Hóa đánh dấu mộ vợ. Cha tôi lại gọi cô Lài dến bảo “Cháu lấy chồng đi”. Cô Lài òa khóc “Cháu xấu xí lắm, chẳng ai lấy. Lại cả tin nữa”. Cha tôi nghẹn ngào Con ơi, con không hiểu rằng cả tin chính là sức mạnh để sống hả con?” Tôi cũng không ngờ những điều như thế lại là diềm báo chuyến này cha tôi ra đi không về. Trước khi lên xe, cha tôi lấy trong ba lô ra quyển vở học sinh. Ông đưa cho tôi. Ông bảo “Trong này cha có ghi chép ít điều, con đọc thử xem”. Cái Mi, cái Vi chào ông. Cái Mi hỏi “Ông đi ra trận hả ông?” Cha tôi bảo “Ừ.” Cái Vi hỏi “Đường ra trận mùa này đẹp lắm có phải không ông?” Cha tôi chửi “Mẹ mày! Láo!” XII Cha tôi đi được vài ngày thì ở nhà xảy ra chuyện cười nôn ruột. Số là ông Cơ cùng với ông Bổng vớt bùn dưới ao vợ tôi trả ông Bổng hai trăm đồng một ngày công, cơm nuôi, bỗng thấy một cái đít chum nổi lên. Hai ông hì hục đào, lại thấy một đít chum nữa, ông Bổng đoán chắc các cụ ngày xưa chôn của. Hai ông báo với vợ tôi. Thủy đến xem, cũng lội xuống đào. Rồi cả cô Lài, cả cái Mi, cái Vi. Cả nhà bê bết bùn đất. Vợ tôi bắt phải ngăn ao, lại đi thuê máy bơm Côle về tát nước. Không khí thật nghiêm trang. Ông Bổng thích lắm “Công tao thấy trước, cứ phải chia cho tao rnột chum”. Hì hục một ngày đào được hai cái chum sứt trong chẳng có gì. Ông Bổng bảo ” Chắc còn nữa”. Lại đào. Được thêm một cái chum nữa, cũng vỡ. Cả nhà mệt lả, bụng đói cồn cào. Vợ tôi sai mua bánh mì về ăn lấy sức đào tiếp. Đào gần chục mét thì vớ được cái lọ sành. Cả nhà mừng rỡ, ai cũng đoán vàng. Mở ra trong thấy toàn một chuỗi “Bảo Đại thông báo” bằng đồng đã han rỉ cả. Lại thấy một cái mề đay mủn nát. Ông Bổng bảo “Thôi chết, tao nhớ ra rồi. Ngày xưa tao với trùm Nhân ăn trộm ở nhà Hàn Tín, bị đuổi, trùm Nhân vứt cái lọ này xuống ao”. Cả nhà được một mẻ cười nôn ruột. Trùm Nhân là tên ăn trộm khét tiếng ở vùng ngoại ô. Hàn Tín trước kia là lính thuộc địa cho Tây, tham gia phong trào “Rồng Nam phun bạc, đánh đuổi Đức tặc”. Cả hai đã chết mục xác từ thuở nảo thuở nào. Ông Bổng bảo “Không sao, bây giờ cả làng này chết tao cũng đủ tiền đi đò nhét vào miệng họ.” Sáng hôm sau, ngủ dậy thì tôi nghe thấy có tiếng gọi cổng. Tôi ra thấy Khổng đứng ngoài. Tôi nghĩ “Mẹ khỉ, cái thằng đểu này là điềm gở nhất của số phận mình.” Khổng bảo “Anh Thuần ơi, anh có điện. Ông cụ mất rồi!” XIII Điện của ông Chưởng “Thiếu tướng Nguyễn Thuấn, hy sinh khi làm nhiệm vụ hồi… giờ… ngày mai táng tại nghĩa trang liệt sĩ hồi… giờ… ngày” Tôi lặng người. Vợ tôi xếp đặt mọi việc rất nhanh. Tôi ra thuê xe, về nhà đã thấy gọn đâu vào đấy Vợ tôi bảo “Khóa cửa nhà trên. Ông Cơ ở lại”. Xe đi Cao Bằng theo đường số Một. Đến nơi thì lễ an táng cha tôi cử hành đã được hai tiếng đồng hồ. Ông Chưởng bảo ”Chúng tôi có lỗi đối với gia đình”. Tôi bảo Không phải thế. Đời người có mệnh”. Ông Chưởng bảo “Cha anh là người đáng trọng”. Tôi hỏi “Theo nghi lễ quân đội hả chú?” Ông Chưởng bảo Cụ ra trận địa, đòi lên chốt”. Tôi bảo ” Cháu hiểu rồi, chú đừng kể nữa”. Tôi khóc, chưa bao giờ tôi khóc như thế. Bây giờ tôi mới hiểu khóc như cha chết là khóc thế nào. Hình như đấy là cái khóc lớn nhất đời một con người. Mộ của cha tôi đặt trong nghĩa trang liệt sĩ. Vợ tôi mang theo máy ảnh bảo chụp mấy kiểu. Hôm sau tôi xin về luôn, ông Chưởng giữ lại nhưng tôi không nghe. Đường về vợ tôi bảo xe đi chậm. Ông Bổng lần đầu mới được đi xa, thích lắm. Ông bảo ”Nước mình thật đẹp như tranh. Bây giờ tôi mới hiểu vì sao phải yêu đất nước. Chứ ở quê ta, dù ngay Hà Nội có văn minh thật, tôi chẳng thấy yêu gì cả”. Vợ tôi bảo “Tại chú quen đấy. Ở nơi khác cũng thế, họ lại thấy yêu Hà Nội”. Ông Bổng bảo ”Thế là nơi này yêu nơi kia, người này yêu người kia. Tất cả đều đất nước mình, nhân dân mình cả. Vậy thì đất nước muôn năm, nhân dân muôn năm. Hoan hô đèn cù! ” XIV Có lẽ câu chuyện của tôi kết thúc ở đây. Sau đó nếp sống của gia đình tôi trở lại như là trước ngày cha tôi nghỉ hưu. Vợ tôi tiếp tục công việc bình thường. Tôi đã hoàn thành công trình nghiên cứu điện phân. Ông Cơ trở nên ít nói, một phần vì bệnh cô Lài nặng hơn. Lúc rỗi, tôi giở đọc những điều cha tôi ghi chép. Tôi hiểu cha tôi hơn. Trên đây là những sự việc lộn xộn của hơn một năm cha tôi nghỉ hưu mà tôi chép lại. Tôi coi đấy như nén hương thắp nhớ người. Nếu có ai đã có lòng để mắt đọc điều tôi viết, xin lượng thứ cho tôi. Tôi xin cảm tạ.
Trào lưu hậu hiện đại đã trở thành một trào lưu có ảnh hưởng lớn trên phạm vi toàn cầu trong đó có VN. Ở Việt Nam, hậu hiện đại xuất hiện như một khuynh hướng mà chúng ta có thể tìm thấy dấu vết hậu hiện đại trong rất nhiều tác phẩm từ thơ ca, đến truyện ngắn, tiểu thuyết.... Trong bài viết này, xin được phân tích một số đặc tính hậu hiện đại qua tác phẩm Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp. Trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, những câu chuyện vô nghĩa của cuộc đời, sự bê tha, nhếch nhác của con người, sự lạc loài của cái đẹp được đề cập đến. Tướng Thuấn trong Tướng về hưu là cái đẹp, nhưng đều lạc loài. Tướng Thuấn về hưu nhưng không cách nào hòa nhập được với gia đình, trước cái chết của vợ, sự hờ hững của con trai, xa lạ với đứa cháu gái và không thể chấp nhận được hành động của cô con dâu khi xay mảnh thai nhi cho chó, ông đã chọn cách chết bên đồng đội. Ông thốt lên “Sao tôi cứ như lạc loài”. . Ông cùng đồng đội vào sinh ra tử để bảo vệ đất nước, để đồng bào được sống hạnh phúc, mà nay trở về ông thấy những bào thai nhỏ xíu bị nấu cho chó ông không chịu được. Trước đây khi còn là tướng, ở trong quân ngũ chỉ huy hàng nghìn quân, đưa ra bao quyết định liên quan đến sinh tử ông Thuấn cũng không thấy khó khăn bằng việc chỉ đạo cái gia đình nhỏ bé của ông Tinh thần hậu hiện đại hoài nghi với tất cả, hoài nghi cả lịch sử là điều chưa từng thấy trong văn học hiện đại. Lịch sử được nhìn nhận từ nhiều góc độ, không còn là cái lịch sử “đáng tin” như chúng ta vẫn nghĩ trước đây, Nguyễn Huy Thiệp đã tạo ra những “lịch sử giả”. Dựng lên lịch sử giả cũng có nghĩa là đi theo tiếng gọi của trò chơi – một hình thức lại hóa nhằm tổ chức một thế giới nghệ thuật in đậm dấu ấn chủ thể sáng tạo mà những cây bút non tay không bao giờ vươn tới được. Xưa nay trong sử sách, trong thơ văn kháng chiến, trong các tác phẩm trước Thiệp, đều ca ngợi hình ảnh người chiến sĩ, các vị tướng trong chiến tranh như biểu tượng hào hùng của dân tộc, chói lòa sau những năm tháng đau thương, nhưng Nguyễn Huy Thiệp đã không miêu tả vị tướng ở thời điểm vinh quang, chói sáng mà chọn thời điểm khi ông ta ở thời bình, trở về với gia đình, đối mặt với xã hội đổi khác, toan tính vì đồng tiền nhiều hơn là sống chết vì lẽ cao cả - độc lập dân tộc. Điều này giống như một sự “giải thiếng” đối với các đại tự sự. Cái hậu hiện đại là vậy, nó thường nói đến những mảnh vỡ trong hiện thực, những tiểu tự sự chứ không cần một sự tôn vinh, phá bỏ “sử thi” trong văn học trước đây. Vị tướng hùng dũng trên chiến trường, trở về nhà không thể quen với lối sống ăn không ngồi rồi hưởng thụ, không thể chịu đựng khi nhìn thấy ngón tay bé xíu của thai nhi, cũng không cách nào hòa nhập với các thành viên khác trong gia đình. Chọn cái chết bằng súng đạn có lẽ ông được ra đi thanh thản hơn. Mặt trái sau ánh hào quang mà Thiệp muốn đề cập đến của một vị tướng cũng như cái hiện thực lạnh lùng của đồng tiền, của lòng người.... Sự đa dạng, chuyển đổi liên tục điểm nhìn nghệ thuật. Trong “Tướng về hưu”, dù ngôi kể là ngôi thứ nhất “tôi”, nhưng qua sự đối thoại, chuyển lời liên tiếp giữa các nhân vật, điểm nhìn cũng thay đổi liên tục tôi, tướng Thuấn, ông Bổng, Thủy....từ đó nhận ra tính cách các nhân vật. Về ngôn ngữ, Nguyễn Huy Thiệp sử dụng ngôn ngữ đối thoại hết sức ngắn gọn, chỉ đủ nêu thông tin, mang đậm tính liệt kê. Nguyễn Huy Thiệp rất chuộng dùng câu đơn. “Cha tôi tên Thuấn, con trưởng họ Nguyễn. Trong làng, họ Nguyễn là họ lớn, số lượng trai đinh có lẽ chỉ thua họ Vũ. Ông nội tôi trước kia học Nho, sau về dạy học. Ông nội tôi có hai vợ. Bà cả sinh được cha tôi ít ngày thì mất, vì vậy ông nội tôi phải tục huyền. Bà hai làm nghề nhuộm vải…” Tướng về hưu. Có thể nói, những câu văn sắc lạnh dửng dưng như thế có mặt khắp các trang văn của Nguyễn Huy Thiệp tạo ra một giọng điệu lạnh lùng, khách quan, cho bạn đọc tự phán đoán câu chuyện, nhà văn không định hướng, không phán xét bất cứ điều gì, đó cũng là tinh thần hậu hiện đại nâng người đọc lên vị trí cao hơn. Kết cấu phân mảnh phá vỡ lối kết cấu truyền thống trước đây, không chú trọng trình tự sự kiện. Ở “Tướng về hưu” ta thấy các câu chuyện rời rạc được kể liền mạch bởi nhân vật tôi. Phần giới thiệu để biết các nhân vật trong gia đình. Sau đó là chuyện gia đình trước khi tướng Thuấn về hưu, chuyện sau khi tưởng Thuấn về hưu, chuyện bắt gặp cảnh những mẩu thai nhi trong nồi cám chó, chuyện bà mẹ chết rồi làm đám ma và cuối cùng là chuyện tướng Thuấn chế. Các tình huống được tạo ra để thấy được những điều tác giả muốn gửi gắm, những dụng ý sâu sắc, đôi khi có thể đảo lên mà không ảnh hưởng đến mạch truyện. Ta có thể bắt gặp điều này trong các truyện Chảy đi sông ơi; Con gái thủy thần, Vàng lửa, Kiếm sắc, Phẩm tiết…Điều này không hề gặp trong các truyện trước Thiệp. Trong giới hạn bài viết đã chỉ ra một vài thuộc tính hậu hiện đại hiện diện trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp như ngôn ngữ ngắn gọn, có nhiều từ tục, kết cấu phân mảnh, cảm thức hậu hiện đại cô đơn, lạc hoài, hoài nghi, đa điểm nhìn.... Chủ nghĩa hậu hiện đại đã cho thấy những ảnh hưởng của nó đến truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp trên cả nội dung và hình thức. Khả năng dung chứa mức độ đậm nhạt sự thể hiện dấu hiệu của “hậu hiện đại” trong từng tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp là không giống nhau. Đi tìm dấu ấn “hậu hiện đại” trong truyện ngắn NHT đã cho ta thấy rõ hơn những ảnh hưởng của nó trong nền văn học Việt Nam nói chung và Nguyễn Huy Thiệp nói riêng. - Phong Cầm -
tướng về hưu nguyễn huy thiệp